Thứ Tư, 14 tháng 9, 2011

Nhà thờ thánh Basil

Nhà thờ thánh Basil

Đăng ngày: 07:55 15-09-2011
Thư mục: Tổng hợp

Nhà thờ thánh Basil



Nhà thờ thánh Basil đẹp rực rỡ như lâu đài cổ tích


Chóp cổ tích của nhà thờ Basil sẽ khiến các ấy thích điên đảo.

Khởi công vào năm 1555 dưới thời Sa hoàng Ivan, sau 11 năm xây dựng và hoàn chỉnh, đến năm 1561 nhà thờ Thánh Basil (Matxcova, Nga) mới hoàn thành. Chiều cao của tòa điện chính của nhà thờ khoảng 81m. Lúc đầu, nhà thờ Thánh Basil chỉ có 8 tòa tháp cùng đứng chung trên một nền, mỗi tòa tháp tượng trưng cho một lần đánh thắng quân Mông Cổ.

Đến năm 1588, tòa tháp thứ 9 được xây dựng ở phía Đông là nơi chứa hài cốt của linh mục Chính thống giáo người Nga Basil (1468 - 1552). Cũng từ đó nhà thờ được gọi là "Nhà thờ Thánh Basil". Nhà thờ nằm ở cuối phía Nam của quảng trường Đỏ, nổi bật với một màu gạch đỏ được xây theo kiểu Byzantine Nga (phần lãnh thổ phía đông đế chế La Mã). Trong những dịp lễ lớn trên Quảng trường Đỏ, nhà thờ được dùng để cử hành thánh lễ cho công chúng. Và ngày 12/7 vừa rồi là ngày kỷ niệm tròn 450 năm của Nhà thờ Thánh Basil đấy. Cùng chúng tớ chiêm ngưỡng vẻ đẹp lộng lẫy của nhà thờ Basil nhé!

Nhìn từ trên cao xuống, nhà thờ St. Basil giống như một ngôi sao 8 cánh (8 tòa tháp vây quanh một tòa tháp chính). Không phải ngẫu nhiên nhà thờ được thiết kế như vậy bởi vì hình ngôi sao 8 cánh và con số 8 mang nhiều ý nghĩa tâm linh và tôn giáo.

Con số 8 mang 2 ý nghĩa: số ngày chúa Jesus phục sinh (theo lịch của người Do Thái cổ), về vương quốc thiên đường được hứa hẹn vào thế kỷ thứ 8. Ngôi sao 8 cánh bản thân nó trong Thiên chúa giáo là ngôi sao dẫn đường cho ánh sáng đến với loài người trong khi đó trên mạng che mặt của Đức mẹ đồng trinh trong Chính thống giáo của Nga, có 3 ngôi sao 8 cánh.

Bên cạnh đó 2 hình vuông đặt chồng lên nhau thì 8 đỉnh của nó sẽ tạo ra 1 ngôi sao 8 cánh. Điều này tượng trưng cho sự vững bền, 4 góc của địa cầu, 4 tác giả kinh Phúc Âm và 4 bức tường bằng nhau của thành phố thiên đường.

Theo truyền thuyết, "Ivan khủng khiếp" đã cho chọc mù mắt kiến trúc sư Postnik Yakovlev để ông không thể tạo thêm ra những công trình có thể "so sánh" với nhà thờ thánh Basil.

Cũng như nước Nga, nhà thờ St. Basil đã trải qua những thời khắc thăng trầm mà đỉnh điểm là 2 lần suýt bị giật sập.

Lần đầu tiên là Napoleon. Truyền thuyết kể lại rằng trước vẻ đẹp ngất ngây của nhà thờ thánh Basil, Napoleon đã quyết định đưa nhà thờ này về Paris. Tuy nhiên khi biết được ý định này không thể thực hiện, Napoleon đã ra lệnh giật sập nhà thờ thánh Basil.

Nhiều ký thuốc nổ đã được gài vào khắp nơi trong nhà thờ thánh Basil. Ngòi nổ đã được châm, lửa bắt đầu cháy. Thế nhưng một cơn mưa rào đã dập tắt ngọn lửa và "cứu sống" nhà thờ St. Basil.

Lần thứ 2 là vào những năm 1930, khi mà Lazar Kaganovich, một đồng chí thân cận của Stalin, người thực hiện việc quy hoạch lại quảng trường Đỏ đã đề xuất giật sập nhà thờ St. Basil vì nó làm hỏng kiến trúc chung.

Stalin đã bác bỏ đề xuất lần 1 của Kaganovich. Nhưng sau đó Stalin đã quyết định loại bỏ nhà thờ thánh Basil. Lần này không phải nhờ trời mà nhờ vào sự dũng cảm của kiến trúc sư Baranovsky, nhà thờ thánh Basil đã không "chết".

Khi chuẩn bị giật sập nhà thờ thánh Basil, Baranovsky đã dọa sẽ cắt cổ mình ngay tại nhà thờ và gửi một điện tính đến cho Stalin. Cuối cùng Stalin đã quyết định giữ lại nhà thờ St. Basil và chỉ bỏ tù Baranovsky 5 năm.


Nội thất trong Nhà thờ Thánh Basil


Ngược với vẻ "phô trương màu sắc bên ngoài", bên trong nhà thờ St. Basil có rất ít phòng cho những linh mục mà thay vào đó là chằng chịt phòng nguyện nhỏ và cầu thang.

Các bức tường được trang trí bằng những hình ảnh hoa lá màu lam tinh tế cùng những bức tranh treo tường mà nhà thờ nào cũng có.

Nhà thờ cũng có nhiều cầu thang gỗ âm trong tường và một trong số đó chỉ mới được phát hiện hồi những năm 1970 trong một lần trùng tu. Đáng chú ý nhất có lẽ là bàn thờ thánh, đặc trưng của các nhà thờ thánh Byzantine làm bằng cẩm thạch có từ thế kỷ 16.

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

Phải Sống Cách Nào Để Làm Chứng Nhân Đích Thực Cho Chúa Kitô

Phải Sống Cách Nào Để Làm Chứng Nhân Đích Thực Cho Chúa Kitô


Phải Sống Cách Nào Để Làm Chứng Nhân Đích Thực Cho Chúa Kitô Trong Hoàn Cảnh Thế Giới Ngày Nay?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Thế giới ngày nay đang ngụp lặn trong “văn hóa của sự chết = culture of death” như Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (nay là Chân Phước) đã dùng cụm từ trên để mô tả, và kêu gọi mọi tín hữu lưu tâm đúng mức về thảm họa này. Cũng như thêm tích cực sống đức tin Công giáo để chống lại ảnh hưởng rất tai hại của làn sóng vô thần, vô luân đang lôi cuốn và xô nhanh biết bao người ở mọi nơi vào con đường hư mất.

Thật vậy, chủ nghĩa tương đối (relativism) cùng với chủ nghĩa hưởng thụ vật chất (material comsumerism) và tục hóa (secularism) đang lừa dối con người tới mức coi thường hay khinh chê mọi giá trị luân lý, đạo đức để từ đó quyến rũ con người ở khắp nơi lao mình đi tìm tiền của, thú vui và hư danh trần thế bằng mọi giá, bất chấp lương tri và đạo đức là nền tảng cho một đời sống nhân luân xứng đáng với địa vị là con người, khác biệt với mọi loài vật cầm thú vô tri.

Chính vì không còn nghe theo tiếng nói của lương tâm, một quà tặng quí giá mà Thiên Chúa chỉ ban tặng riêng cho con người để giúp con người biết sống theo đường lối của Ngài hầu được cứu rỗi, nên người ta đã lẫn lộn giữa sự thiện và điều ác, lấy gian manh lừa đảo làm lẽ sống, chà đạp thô bạo mọi giá trị của luân lý, phong hóa, công bằng, nhân ái, coi trọng súc vật, như chó, mèo, rùa (turtle) chím, cá… hơn cả sự sống của con người, dù chỉ mới thành hình trong lòng mẹ. Đó là tội phá thai ở khắp nơi -tức giết người- mà người ta coi là vô tội, là hợp lý, là quyền riêng của phụ nữ, trong khi tự bản chất (intrinsically) đó là tội ác lớn lao nhất mà con người thời đại này đã phạm và vô tình chống lại Thiên Chúa là Nguồn phát sinh mọi sự sống.

Mặt khác, cũng vì coi rẻ lương tâm, không chấp nhận có luân lý, đạo đức phổ quát (universal ethics and morals) vì coi mọi giá trị tinh thần và đạo đức chỉ là tương đối, nên con người ở khắp nơi ngày nay đang mặc sức làm những sự dữ như chém giết, gian ác, tráo trở, lừa đảo, bóc lột, bất công, chà đạp quyền sống của con người, cho phép hôn nhân đồng tính (same sex marriage) sản xuất sách báo, phim ảnh bạo động, dâm ô, và nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm (child prostitution) rất khốn nạn và vô luân.

Tệ hại không kém là tập đoàn tài phiệt, đại tư bản gian ác ở Mỹ đã dùng tiền bạc để mua chuộc (lobby) các dân biểu, nghị sĩ để họ thông qua luật không tăng hay miễn thuế cho bọn chúng, nhưng lại cắt giảm ngân quỹ dành cho bệnh nhân, cho giáo dục và người già sống nhờ trợ cấp xã hội (tiền già, SSI). Đây là tội ác của những tay đại tư bản quá giầu có nhưng hoàn toàn vô tâm, lãnh cảm (numb) trước sự đau khổ của người nghèo, người có lợi tức thấp, không có bảo hiểm sức khỏe và không có tiền cho con cái đi học đại học như con cái của bọn nhà giầu kia.

Ở bên kia thái cực, những người cầm quyền của các chế độ cộng sản còn lại trên thề giới hiện nay, đều đã trở thành “những đại tư bản đỏ” những tay giầu sụ nhờ vơ vết tài sản của công làm của riêng và tàn nhẫn bóc lột người dân đen để có nhiều tiền chuyển ra ngoại quốc phòng thân cũng như gửi con cái đi học ở Mỹ, Canada, Anh, Pháp… trong khi đa số người dân trong nước còn sống dưới mức nghèo khổ, phụ nữ phải bán thân nuôi miệng, hoặc nhắm mắt trao mình cho bọn buôn người khai thác kỹ nghệ mãi dâm dưới bình phong "hôn nhân nước ngoài" vô cùng khốn nạn và vô luân như đã diễn ra từ nhiều năm nay.

Trước thực trạng này, là người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo, chúng ta được kêu gọi hơn bao giờ hết phải thực sự sống niềm tin có Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, là Đấng công minh chính trực để làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã đến không những để cứu con người khỏi chết vì tội mà còn mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa duy nhất thánh thiện, công bình, khoan dung và đầy yêu thương, nhưng gớm ghét mọi tội lỗi.

Sau khi hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại, và trước lúc về Trời, Chúa Giêsu đã ân cần căn dặn các Tông Đồ như sau :

Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là nhân chứng cho Thầy tại Giê -ru-sa-lem, trong khắp các miền Giuđa, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1: 8)

Làm nhân chứng cho Thầy ở Giê-ru-salem và cho đến tận cùng trái đất nghĩa là gì?

I- Trước hết, về phía người đi rao giảng, dạy dỗ chân lý

Làm chứng cho Thầy chắc chắn không phải là chỉ nói cho hay, giảng cho hùng hồn, hấp dẫn, xây chủng viện tốn phí lên đến 4, 5 triệu dollars hoặc xây hay sửa sang thêm nhiều nhà thờ nguy nga lộng lẫy để khoe khoang với du khách nước ngoài về mức phát triển (giả tạo) của Đạo Thánh ở Giáo hội địa phương.

Nói thế không có nghĩa là không cần xây chủng viện hay nhà thờ mà chỉ muốn nhấn mạnh điều quan trọng hơn là phải chú tâm xây đền thờ Chúa trong tâm hồn mọi tín hữu, đào tạo những Kitô Hữu đích thực để làm nhân chứng cho Chúa Kitô trong một xã hội, một thế giới quá gian tà như thực trạng ở khắp nơi ngày nay.

Thật vậy, làm chứng nhân cho Chúa Kitô không phải chỉ chú trọng rao giảng Tin mừng Cứu Độ của Chúa - mặc dù là cần- nhưng cần thiết và quan trọng hơn là chính người đi rao giảng phải sống và thực hành cách trung thực điều mình giảng dạy. Có như thế, thì mới mưu ích cho phần rỗi của chính mình và cho người khác, nhờ gương sống đức tin của mình trong vai trò nhân chứng cho Chúa giữa thế gian, khiến cho nhiều người tin và biết sống ngay lành để được cứu rỗi, vì đó “là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1Tm 2:3-4).

Nói khác đi, nếu người rao giảng không sống trung thực với nội dung Tin Mừng thì sẽ không thuyết phục được ai nghe và tin điều mình giảng dạy. Và như thế, thay vì là nhân chứng cho Chúa, người ta sẽ trở thành phản chứng (anti-witness), vì lời nói không đi đôi với việc làm, lý thuyết mâu thuẫn với thực hành khiến không ai muốn nghe và tin điều mình dạy bảo nữa.

Cụ thể nhất hiện nay là một linh mục kia (bên VN) mà đời tư cũng như đời công đều đã phơi bày cho mọi người biết từ trên 30 năm qua, nay đột nhiên lên giọng "gái hư mất nết mà còn già mồm" hay "vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa la làng". Ông trơ trẽn thách đố ai trưng được bằng cớ "ông có vợ con" và còn đe dọa đưa người tố cáo ra tòa ! Thật hết chỗ nói. Luận cứ của ông thì con nit cũng không thể nghe và tin được, nói chi người lớn. Không ai có thể lấy thúng để úp voi. Và chỉ có "luật rừng rú" mới có thể bênh vực và xử cho ông thắng kiện trong việc trơ trẽn dối gạt không những lương tâm của chính mình mà còn bóp méo sự thật để mong phỉnh gạt người khác. Nhưng chắc chắn ông không thể thuyết phục được ai và việc làm của ông chỉ tố cáo một sự kiện rõ rệt nhất : đó là sự phá sản của lương tâm con người và lương thiện của một linh mục. Chúa nói : "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ma quỷ." (Mt 5: 37). Ông hẳn đã nghe và giảng câu này cho giáo dân nhiều lần ???

Như thế, đời sống và việc làm của ông chỉ giúp làm chứng rất hữu hiệu cho sự gian dối, tráo trở, vô liêm sỉ của một con người và -tệ hại hơn nữa- của một linh mục đã biến chất, phương hại cho thanh danh của hàng giáo sĩ và uy tin của Giáo Hội. Do đó, tuyệt đối không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về bất cứ phương diện hay giá trị nào.

Liên quan đến sự tráo trở của linh mục trên, cũng cần phải nói đến sự vô trách nhiệm của Giáo quyền đia phương đã vô tình hay cố ý đồng lõa, dung túng cho đương sự làm những việc sai trái từ bao năm qua mà không hề có biện pháp kỷ luật thích hợp theo giáo luật (x. can. no. 285)

Đây cũng là thái độ thiếu nhân chứng của những người lẽ ra phải nêu gương nhân chứng về tinh thần trách nhiệm nhằm bảo vệ giáo lý và kỷ luật của Giáo Hội đối với những vi phạm có hại cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội trong hoàn cảnh giáo hội địa phương.

Trở lại vai trò nhân chứng của người rao giảng, nếu không sống và thực hành những gì mình giảng dạy cho người khác, thì chính mình cũng sẽ chẳng được lợi ích gì về mặt thiêng liêng như Thánh Phaolô đã tự cảnh giác ngài như sau : “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tội lại bị loại.” (1 Cor 9: 27).

Bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng có nghĩa là phải chiến đấu với chính bản thân mình để vượt thắng những trở ngại của bản chất tham sân si để sống đúng với điều mình dạy bảo người khác hầu nêu gương sáng cho họ và thuyết phục họ tin và sống điều mình giảng dạy cho họ.

Cụ thể, giảng yêu thương, công bình và bác ái cho ai thì chính mình phải nêu gương sáng trước tiên về những nhân đức này, “… để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5: 16)

Cũng vậy, giảng khó nghèo và khiết tịnh (chastity) cho người khác nhưng chính bản thân mình lại công khai có vợ con, chạy theo tiền của, làm tay sai cho chế độ cai trị để mưu tư lợi và phá hoại Giáo Hội, bất chấp giáo luật (x. giáo luật số 285) thì làm chứng cho ai ?

Lại nữa, người đi rao giảng mà chỉ làm thân với người giầu có, ban ân huệ riêng cho những người này, như cho phép nhiều linh mục đồng tế trong những dịp vui buồn của gia đình họ.Ngược lại, với người nghèo khó, thì coi thường coi rẻ, áp dụng cứng nhắc luật cấm đồng tế, dù cho gia đình hiếu hỉ có thân nhân làm linh mục cũng không cho ai đồng tế.

Như vậy, làm sao có thể là chứng nhân cho Chúa Kitô “Đấng vốn giầu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có?” (2 Cor 8)

Mặt khác, không nên quá chú trọng xây nhà thờ, hay sửa sang cho đẹp bề ngoài mà không chú tâm xây đền thờ Chúa trong tâm hồn của mọi tín hữu như đã nói ở trên thì ích lợi gì ?

Có đông tín hữu ngồi chật kín nhà thờ trong các ngày lễ lớn, mà khi ra về nhiều người vẫn sống thiếu bác ái, thiếu luân lý thì thà có ít người đến thờ phượng Chúa nhưng biết sống ngay lành nhờ lời giảng dạy đúng và gương sáng của chủ chăn thì vẫn quí hơn nhiều. Và đây mới là điều cần thiết phải làm để nên nhân chứng cho Chúa trong trần thế này.

Nói khác đi, sống trong một xã hội đã quá tha hóa, tụt hầu nặng nề về luân thường, đạo lý về công bình, bác ái và thiếu tình người, thì cần thiết hơn bao giờ hết là phải nêu cao những giá trị của Kitô Giáo về một đời sống có luân lý,đạo đức, công bằng, lương thiện và yêu thương để làm nhân chứng cho Chúa Kitô về những giá trị căn bản này hầu đánh tan bóng đêm của gian tà, và tội ác đang bao phủ môi trường xã hội ở khắp nơi hiện nay.

Cũng vậy, xây chủng viện cho to và tốn nhiều tiền của nhưng nếu không dạy cho chủng sinh – những mục tử tương lai của Giáo Hội- một linh đạo (spirituality) sâu sắc và quân bình, một kiến thức chuyên môn cần thiết (sufficient or adequate knowlege), và một tình thần tông đồ nhiệt thành thì sẽ không tránh được những mục tử sai trái về giáo lý, tín lý, phụng vụ, và mục vụ sau này khi ra thi hành sứ vụ.

Và trong viễn ảnh đó, thì thay vì làm nhân chứng cho Chúa, người tông đồ sẽ trở thành phản chứng do chính công việc mình làm trước mặt người khác.

Cụ thể, không thể làm nhân chứng cho Chúa về đức bác ái Kitô Giáo nếu lời giảng dạy và việc làm của mình lại lỗi bác ái cách nặng nề, khi công khai bêu xấu người khác trên tòa giảng. Đó là trường hợp linh mục quản xứ kia đã loan báo ở nhà thờ việc cô gái nào có thai trước khi làm đám cưới và đòi cha mẹ cô phải xin lỗi mọi người trong giáo xứ, theo lời kể của một nhân chứng. Đây mới là việc làm hoàn toàn có tác dụng phản chứng thay vì là nhân chứng cho Chúa Kitô, Đấng yêu thương và không muốn ném đá người tội lỗi như bọn Biệt phái xưa định ném đá một phụ nữ ngoại tình kia. (Ga 6 :2-11).

Đó là về phía người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và dạy dỗ chân lý của Đạo Thánh mà Chúa Kitô đã mang từ trời xuống để giảng dạy cách nay hơn 2000 năm.

II- Về phía người nghe rao giảng Tin Mừng

Tức mọi tín hữu trong Giáo Hội, thì làm nhân chứng cho Chúa càng đòi hỏi phải thực thi trong đời sống của mình giữa bao người khác những gì là cốt lõi của Tin Mừng. Cụ thể là thực tâm mến Chúa, yêu người, chuộng công bình, thực thi bác ái, nhất là xa tránh mọi tội lỗi, và mọi thói hư tật xấu của môi trường xã hội để “… trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2: 15).

Lời Chúa trên đây nhằm để cho ta sống và thực hành hay chỉ là "giáo điều" không thực tế, không áp dụng được ???

Thật vậy, sống trong một thế giới của "văn hóa sự chết", giữa biết bao nhiêu người tôn thờ chủ nghĩa hưởng thụ vật chất và vui thú vô luân, làm những sự dữ như giết người, gian dâm, thay chồng đổi vợ, bóc lột, lường đảo, gian ác... chỉ vì không tin có Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, công minh, đầy yêu thương và thánh thiện.

Nếu người Công giáo cũng sống và hành động như những kẻ vô thần hay dửng dưng với mọi tín ngưởng nói trên thì làm sao có thể là nhân chứng cho Chúa Kitô được?

Nói khác đi, nếu không thực sự yêu mến Chúa trên hết mọi vinh quang, giầu sang và vui thú hư hèn ở đời này, để quyết tâm tìm Chúa và sống theo đường lối của Người, xa tránh mọi tội lỗi, mọi lối sống của "văn hóa sự chết" thì không những vô ích cho phần rỗi của chính mình mà còn không giúp ích gì cho ai trong vai trò làm nhân chứng đức tin để mời gọi người khác tin và yêu Chúa để được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn (1Tm 2: 4).

Trong viễn ảnh đó, thì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cũng sẽ trở nên vô ích cho những ai chỉ mang danh Kitô hữu nhưng đời sống, tư tưởng và hành động lại hoàn toàn mâu thuẫn với nội dung của danh xưng này.

Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa như sau:

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa, lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên trời có nghĩa là phải sống theo đường lối của Chúa, thực thi công bình và bác ái, xa tránh mọi tội lỗi để trở nên men, muối và ánh sáng của Chúa Kitô trong một thế giới đang bị ung thối vì tội ác và bao phủ với mây mù của sự dữ.

Tóm lại, mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội đều có sứ mệnh cao cả là làm chứng tá cho Chúa Kitô trước mặt người đời bằng chính đời sống của mình, bằng việc làm cụ thể phản ánh trung thực mọi giá trị của Tin Mừng Cứu Độ để mời gọi những người chưa biết Chúa được tin có Chúa nhờ đời sống nhân chứng đích thực của mình.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Phải Sống Cách Nào Để Làm Chứng Nhân Đích Thực Cho Chúa Kitô


Phải Sống Cách Nào Để Làm Chứng Nhân Đích Thực Cho Chúa Kitô Trong Hoàn Cảnh Thế Giới Ngày Nay?

§ Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Thế giới ngày nay đang ngụp lặn trong “văn hóa của sự chết = culture of death” như Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (nay là Chân Phước) đã dùng cụm từ trên để mô tả, và kêu gọi mọi tín hữu lưu tâm đúng mức về thảm họa này. Cũng như thêm tích cực sống đức tin Công giáo để chống lại ảnh hưởng rất tai hại của làn sóng vô thần, vô luân đang lôi cuốn và xô nhanh biết bao người ở mọi nơi vào con đường hư mất.

Thật vậy, chủ nghĩa tương đối (relativism) cùng với chủ nghĩa hưởng thụ vật chất (material comsumerism) và tục hóa (secularism) đang lừa dối con người tới mức coi thường hay khinh chê mọi giá trị luân lý, đạo đức để từ đó quyến rũ con người ở khắp nơi lao mình đi tìm tiền của, thú vui và hư danh trần thế bằng mọi giá, bất chấp lương tri và đạo đức là nền tảng cho một đời sống nhân luân xứng đáng với địa vị là con người, khác biệt với mọi loài vật cầm thú vô tri.

Chính vì không còn nghe theo tiếng nói của lương tâm, một quà tặng quí giá mà Thiên Chúa chỉ ban tặng riêng cho con người để giúp con người biết sống theo đường lối của Ngài hầu được cứu rỗi, nên người ta đã lẫn lộn giữa sự thiện và điều ác, lấy gian manh lừa đảo làm lẽ sống, chà đạp thô bạo mọi giá trị của luân lý, phong hóa, công bằng, nhân ái, coi trọng súc vật, như chó, mèo, rùa (turtle) chím, cá… hơn cả sự sống của con người, dù chỉ mới thành hình trong lòng mẹ. Đó là tội phá thai ở khắp nơi -tức giết người- mà người ta coi là vô tội, là hợp lý, là quyền riêng của phụ nữ, trong khi tự bản chất (intrinsically) đó là tội ác lớn lao nhất mà con người thời đại này đã phạm và vô tình chống lại Thiên Chúa là Nguồn phát sinh mọi sự sống.

Mặt khác, cũng vì coi rẻ lương tâm, không chấp nhận có luân lý, đạo đức phổ quát (universal ethics and morals) vì coi mọi giá trị tinh thần và đạo đức chỉ là tương đối, nên con người ở khắp nơi ngày nay đang mặc sức làm những sự dữ như chém giết, gian ác, tráo trở, lừa đảo, bóc lột, bất công, chà đạp quyền sống của con người, cho phép hôn nhân đồng tính (same sex marriage) sản xuất sách báo, phim ảnh bạo động, dâm ô, và nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm (child prostitution) rất khốn nạn và vô luân.

Tệ hại không kém là tập đoàn tài phiệt, đại tư bản gian ác ở Mỹ đã dùng tiền bạc để mua chuộc (lobby) các dân biểu, nghị sĩ để họ thông qua luật không tăng hay miễn thuế cho bọn chúng, nhưng lại cắt giảm ngân quỹ dành cho bệnh nhân, cho giáo dục và người già sống nhờ trợ cấp xã hội (tiền già, SSI). Đây là tội ác của những tay đại tư bản quá giầu có nhưng hoàn toàn vô tâm, lãnh cảm (numb) trước sự đau khổ của người nghèo, người có lợi tức thấp, không có bảo hiểm sức khỏe và không có tiền cho con cái đi học đại học như con cái của bọn nhà giầu kia.

Ở bên kia thái cực, những người cầm quyền của các chế độ cộng sản còn lại trên thề giới hiện nay, đều đã trở thành “những đại tư bản đỏ” những tay giầu sụ nhờ vơ vết tài sản của công làm của riêng và tàn nhẫn bóc lột người dân đen để có nhiều tiền chuyển ra ngoại quốc phòng thân cũng như gửi con cái đi học ở Mỹ, Canada, Anh, Pháp… trong khi đa số người dân trong nước còn sống dưới mức nghèo khổ, phụ nữ phải bán thân nuôi miệng, hoặc nhắm mắt trao mình cho bọn buôn người khai thác kỹ nghệ mãi dâm dưới bình phong "hôn nhân nước ngoài" vô cùng khốn nạn và vô luân như đã diễn ra từ nhiều năm nay.

Trước thực trạng này, là người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo, chúng ta được kêu gọi hơn bao giờ hết phải thực sự sống niềm tin có Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, là Đấng công minh chính trực để làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã đến không những để cứu con người khỏi chết vì tội mà còn mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa duy nhất thánh thiện, công bình, khoan dung và đầy yêu thương, nhưng gớm ghét mọi tội lỗi.

Sau khi hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại, và trước lúc về Trời, Chúa Giêsu đã ân cần căn dặn các Tông Đồ như sau :

Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là nhân chứng cho Thầy tại Giê -ru-sa-lem, trong khắp các miền Giuđa, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1: 8)

Làm nhân chứng cho Thầy ở Giê-ru-salem và cho đến tận cùng trái đất nghĩa là gì?

I- Trước hết, về phía người đi rao giảng, dạy dỗ chân lý

Làm chứng cho Thầy chắc chắn không phải là chỉ nói cho hay, giảng cho hùng hồn, hấp dẫn, xây chủng viện tốn phí lên đến 4, 5 triệu dollars hoặc xây hay sửa sang thêm nhiều nhà thờ nguy nga lộng lẫy để khoe khoang với du khách nước ngoài về mức phát triển (giả tạo) của Đạo Thánh ở Giáo hội địa phương.

Nói thế không có nghĩa là không cần xây chủng viện hay nhà thờ mà chỉ muốn nhấn mạnh điều quan trọng hơn là phải chú tâm xây đền thờ Chúa trong tâm hồn mọi tín hữu, đào tạo những Kitô Hữu đích thực để làm nhân chứng cho Chúa Kitô trong một xã hội, một thế giới quá gian tà như thực trạng ở khắp nơi ngày nay.

Thật vậy, làm chứng nhân cho Chúa Kitô không phải chỉ chú trọng rao giảng Tin mừng Cứu Độ của Chúa - mặc dù là cần- nhưng cần thiết và quan trọng hơn là chính người đi rao giảng phải sống và thực hành cách trung thực điều mình giảng dạy. Có như thế, thì mới mưu ích cho phần rỗi của chính mình và cho người khác, nhờ gương sống đức tin của mình trong vai trò nhân chứng cho Chúa giữa thế gian, khiến cho nhiều người tin và biết sống ngay lành để được cứu rỗi, vì đó “là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1Tm 2:3-4).

Nói khác đi, nếu người rao giảng không sống trung thực với nội dung Tin Mừng thì sẽ không thuyết phục được ai nghe và tin điều mình giảng dạy. Và như thế, thay vì là nhân chứng cho Chúa, người ta sẽ trở thành phản chứng (anti-witness), vì lời nói không đi đôi với việc làm, lý thuyết mâu thuẫn với thực hành khiến không ai muốn nghe và tin điều mình dạy bảo nữa.

Cụ thể nhất hiện nay là một linh mục kia (bên VN) mà đời tư cũng như đời công đều đã phơi bày cho mọi người biết từ trên 30 năm qua, nay đột nhiên lên giọng "gái hư mất nết mà còn già mồm" hay "vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa la làng". Ông trơ trẽn thách đố ai trưng được bằng cớ "ông có vợ con" và còn đe dọa đưa người tố cáo ra tòa ! Thật hết chỗ nói. Luận cứ của ông thì con nit cũng không thể nghe và tin được, nói chi người lớn. Không ai có thể lấy thúng để úp voi. Và chỉ có "luật rừng rú" mới có thể bênh vực và xử cho ông thắng kiện trong việc trơ trẽn dối gạt không những lương tâm của chính mình mà còn bóp méo sự thật để mong phỉnh gạt người khác. Nhưng chắc chắn ông không thể thuyết phục được ai và việc làm của ông chỉ tố cáo một sự kiện rõ rệt nhất : đó là sự phá sản của lương tâm con người và lương thiện của một linh mục. Chúa nói : "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ma quỷ." (Mt 5: 37). Ông hẳn đã nghe và giảng câu này cho giáo dân nhiều lần ???

Như thế, đời sống và việc làm của ông chỉ giúp làm chứng rất hữu hiệu cho sự gian dối, tráo trở, vô liêm sỉ của một con người và -tệ hại hơn nữa- của một linh mục đã biến chất, phương hại cho thanh danh của hàng giáo sĩ và uy tin của Giáo Hội. Do đó, tuyệt đối không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về bất cứ phương diện hay giá trị nào.

Liên quan đến sự tráo trở của linh mục trên, cũng cần phải nói đến sự vô trách nhiệm của Giáo quyền đia phương đã vô tình hay cố ý đồng lõa, dung túng cho đương sự làm những việc sai trái từ bao năm qua mà không hề có biện pháp kỷ luật thích hợp theo giáo luật (x. can. no. 285)

Đây cũng là thái độ thiếu nhân chứng của những người lẽ ra phải nêu gương nhân chứng về tinh thần trách nhiệm nhằm bảo vệ giáo lý và kỷ luật của Giáo Hội đối với những vi phạm có hại cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội trong hoàn cảnh giáo hội địa phương.

Trở lại vai trò nhân chứng của người rao giảng, nếu không sống và thực hành những gì mình giảng dạy cho người khác, thì chính mình cũng sẽ chẳng được lợi ích gì về mặt thiêng liêng như Thánh Phaolô đã tự cảnh giác ngài như sau : “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tội lại bị loại.” (1 Cor 9: 27).

Bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng có nghĩa là phải chiến đấu với chính bản thân mình để vượt thắng những trở ngại của bản chất tham sân si để sống đúng với điều mình dạy bảo người khác hầu nêu gương sáng cho họ và thuyết phục họ tin và sống điều mình giảng dạy cho họ.

Cụ thể, giảng yêu thương, công bình và bác ái cho ai thì chính mình phải nêu gương sáng trước tiên về những nhân đức này, “… để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5: 16)

Cũng vậy, giảng khó nghèo và khiết tịnh (chastity) cho người khác nhưng chính bản thân mình lại công khai có vợ con, chạy theo tiền của, làm tay sai cho chế độ cai trị để mưu tư lợi và phá hoại Giáo Hội, bất chấp giáo luật (x. giáo luật số 285) thì làm chứng cho ai ?

Lại nữa, người đi rao giảng mà chỉ làm thân với người giầu có, ban ân huệ riêng cho những người này, như cho phép nhiều linh mục đồng tế trong những dịp vui buồn của gia đình họ.Ngược lại, với người nghèo khó, thì coi thường coi rẻ, áp dụng cứng nhắc luật cấm đồng tế, dù cho gia đình hiếu hỉ có thân nhân làm linh mục cũng không cho ai đồng tế.

Như vậy, làm sao có thể là chứng nhân cho Chúa Kitô “Đấng vốn giầu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có?” (2 Cor 8)

Mặt khác, không nên quá chú trọng xây nhà thờ, hay sửa sang cho đẹp bề ngoài mà không chú tâm xây đền thờ Chúa trong tâm hồn của mọi tín hữu như đã nói ở trên thì ích lợi gì ?

Có đông tín hữu ngồi chật kín nhà thờ trong các ngày lễ lớn, mà khi ra về nhiều người vẫn sống thiếu bác ái, thiếu luân lý thì thà có ít người đến thờ phượng Chúa nhưng biết sống ngay lành nhờ lời giảng dạy đúng và gương sáng của chủ chăn thì vẫn quí hơn nhiều. Và đây mới là điều cần thiết phải làm để nên nhân chứng cho Chúa trong trần thế này.

Nói khác đi, sống trong một xã hội đã quá tha hóa, tụt hầu nặng nề về luân thường, đạo lý về công bình, bác ái và thiếu tình người, thì cần thiết hơn bao giờ hết là phải nêu cao những giá trị của Kitô Giáo về một đời sống có luân lý,đạo đức, công bằng, lương thiện và yêu thương để làm nhân chứng cho Chúa Kitô về những giá trị căn bản này hầu đánh tan bóng đêm của gian tà, và tội ác đang bao phủ môi trường xã hội ở khắp nơi hiện nay.

Cũng vậy, xây chủng viện cho to và tốn nhiều tiền của nhưng nếu không dạy cho chủng sinh – những mục tử tương lai của Giáo Hội- một linh đạo (spirituality) sâu sắc và quân bình, một kiến thức chuyên môn cần thiết (sufficient or adequate knowlege), và một tình thần tông đồ nhiệt thành thì sẽ không tránh được những mục tử sai trái về giáo lý, tín lý, phụng vụ, và mục vụ sau này khi ra thi hành sứ vụ.

Và trong viễn ảnh đó, thì thay vì làm nhân chứng cho Chúa, người tông đồ sẽ trở thành phản chứng do chính công việc mình làm trước mặt người khác.

Cụ thể, không thể làm nhân chứng cho Chúa về đức bác ái Kitô Giáo nếu lời giảng dạy và việc làm của mình lại lỗi bác ái cách nặng nề, khi công khai bêu xấu người khác trên tòa giảng. Đó là trường hợp linh mục quản xứ kia đã loan báo ở nhà thờ việc cô gái nào có thai trước khi làm đám cưới và đòi cha mẹ cô phải xin lỗi mọi người trong giáo xứ, theo lời kể của một nhân chứng. Đây mới là việc làm hoàn toàn có tác dụng phản chứng thay vì là nhân chứng cho Chúa Kitô, Đấng yêu thương và không muốn ném đá người tội lỗi như bọn Biệt phái xưa định ném đá một phụ nữ ngoại tình kia. (Ga 6 :2-11).

Đó là về phía người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và dạy dỗ chân lý của Đạo Thánh mà Chúa Kitô đã mang từ trời xuống để giảng dạy cách nay hơn 2000 năm.

II- Về phía người nghe rao giảng Tin Mừng

Tức mọi tín hữu trong Giáo Hội, thì làm nhân chứng cho Chúa càng đòi hỏi phải thực thi trong đời sống của mình giữa bao người khác những gì là cốt lõi của Tin Mừng. Cụ thể là thực tâm mến Chúa, yêu người, chuộng công bình, thực thi bác ái, nhất là xa tránh mọi tội lỗi, và mọi thói hư tật xấu của môi trường xã hội để “… trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2: 15).

Lời Chúa trên đây nhằm để cho ta sống và thực hành hay chỉ là "giáo điều" không thực tế, không áp dụng được ???

Thật vậy, sống trong một thế giới của "văn hóa sự chết", giữa biết bao nhiêu người tôn thờ chủ nghĩa hưởng thụ vật chất và vui thú vô luân, làm những sự dữ như giết người, gian dâm, thay chồng đổi vợ, bóc lột, lường đảo, gian ác... chỉ vì không tin có Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, công minh, đầy yêu thương và thánh thiện.

Nếu người Công giáo cũng sống và hành động như những kẻ vô thần hay dửng dưng với mọi tín ngưởng nói trên thì làm sao có thể là nhân chứng cho Chúa Kitô được?

Nói khác đi, nếu không thực sự yêu mến Chúa trên hết mọi vinh quang, giầu sang và vui thú hư hèn ở đời này, để quyết tâm tìm Chúa và sống theo đường lối của Người, xa tránh mọi tội lỗi, mọi lối sống của "văn hóa sự chết" thì không những vô ích cho phần rỗi của chính mình mà còn không giúp ích gì cho ai trong vai trò làm nhân chứng đức tin để mời gọi người khác tin và yêu Chúa để được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn (1Tm 2: 4).

Trong viễn ảnh đó, thì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cũng sẽ trở nên vô ích cho những ai chỉ mang danh Kitô hữu nhưng đời sống, tư tưởng và hành động lại hoàn toàn mâu thuẫn với nội dung của danh xưng này.

Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa như sau:

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa, lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên trời có nghĩa là phải sống theo đường lối của Chúa, thực thi công bình và bác ái, xa tránh mọi tội lỗi để trở nên men, muối và ánh sáng của Chúa Kitô trong một thế giới đang bị ung thối vì tội ác và bao phủ với mây mù của sự dữ.

Tóm lại, mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội đều có sứ mệnh cao cả là làm chứng tá cho Chúa Kitô trước mặt người đời bằng chính đời sống của mình, bằng việc làm cụ thể phản ánh trung thực mọi giá trị của Tin Mừng Cứu Độ để mời gọi những người chưa biết Chúa được tin có Chúa nhờ đời sống nhân chứng đích thực của mình.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn