Thứ Hai, 24 tháng 5, 2010

Thứ Sáu, 21 tháng 5, 2010

Người đàn ông đáng kính phục



Xin chuyển tiếp với tất cả lòng kính phục người đàn bà và người chồng đầy tình thương này

Minhha


Ceci est un Mystère de Dieu …



































Et vous à la place de cette femme ! allez-vous vous suicider?
Et vous, si vous étiez cet homme allez-vous accepter cette femme?

Notre vie est dirigée par Dieu, croyez aux mystères


Prière de Sainte Thérèse


Puisses-tu avoir la paix intérieure aujourd'hui.
Puisses-tu avoir la certitude que Dieu t'as placé exactement où tu devais être.
Puisses-tu ne pas oublier les possibilités infinies qui émanent de la foi.
Puisses-tu utiliser ces cadeaux que tu as reçus et transmettre l'amour qui t'as été donné.
Puisses-tu être heureux de savoir que tu es un enfant de Dieu.
Laisse cette présence s'enfoncer jusqu'au fond de toi, permets à ton âme de chanter.
Danse, glorifie, aime.
C'est là pour chacun de nous.


Maintenant envoie ceci à 11 personnes dans les 5 prochaines minutes Tu verras pourquoi


Cet ang
le t'est envoyé .

Tu dois l'envoyer à 11 personnes.


Dans 8 minutes tu recevras quelque chose que tu attends depuis longtemps.

Crois-y
.

Que Dieu te bénisse

Thứ Hai, 10 tháng 5, 2010

Tôn Giáo

Tôn Giáo





1. TÔN GIÁO CÓ CẦN KHÔNG?

Cây cối có sinh hồn. Súc vật có sinh hồn và giác hồn. Súc vật như chó, mèo, trâu, bò, khỉ,.. dù tiếp cận với văn minh của con người, như tivi, điện thoại, máy vi tính, báo chí…thì chúng vẫn chỉ là chó, mèo, trâu, bò, khỉ, dù 1 triệu năm trươc và 1 triệu năm sau chúng vẫn thế. Cây cối và súc vật, không biêt thế nào là thiện, là ác. Chúng không có tự do lựa chọn. Chúng hành động theo bản năng do Thiên Chúa đặt để nơi chúng. Chúng không có trách nhiệm về hành vi của chúng, và không được ban thưởng thiên đàng, hay bị đọa phạt hỏa ngục; chúng là một thứ ‘rôbôt’ của Thượng Đế, chết là hết.



Con người có sinh hồn, giác hồn và linh hồn. Tài năng của linh hồn là trí khôn, hiểu biêt, ý chí, có sáng tạo, tự do lựa chọn, có lương tâm phân biệt thiện, ác; biết ân hận khi làm điều sai; biêt ơn khi nhận lãnh điều tôt; có tình cảm biêt yêu, gét, hờn giỗi, gen tương; biết trở về nẽo chính nếu đi lạc đường; biêt thắc mắc, học hỏi, đọc, viết... Rất cụ thể bạn đọc và hiểu những dòng chữ này, minh chứng bạn có linh hồn. Nếu bạn còn nghi ngờ, xin đọc tiêp: Y sĩ danh tiếng đệ nhât thế kỷ vừa qua, Claude Bernard, giáo sư y khoa đại học Paris, nhân viên hàn lâm viện khoa học Pháp:
“Thân xác con người là một tổ hợp những chất thay đi đổi lại luôn. Tât cả mọi phần trong thân xác đều theo một luật biến hóa không ngừng. Mỗi ngày bạn mất một ít của thân xác, và cái phần mất đó, bạn sẽ bù lại bằng ăn, uống. Như thế trong khoảng thời gian 8 năm, thịt của bạn, xương của bạn, được thay thế bằng thịt mới, xương mới cứ từ từ tiếp đến. Bàn tay mà bạn cầm bút hôm nay, không còn bởi những tế bào cách đây 8 năm. Tuy hình thức không khác, nhưng chất thể không phải là một. Điều mà tôi nói về bàn tay, cũng nói về khối óc. Cái sọ của bạn không đựng một chất óc như cách đây 8 năm. Đã như thế, vì tất cả mọi sự của khối óc biến chuyển trong 8 năm, làm sao bạn còn nhớ đưọc y nguyên những cái bạn đã làm, đã học cách đây 8 năm? Nếu đúng như mấy ông vật lý học nói tư tưởng xếp ngăn, in vào những ô trong óc, thì làm sao những tư tưởng đó còn lại, trong khi các ô trong óc biến hết không còn lại tí nào? Những lá óc bây giờ không phải là cái cách đây 8 năm, nhưng bạn còn vẫn nhớ y nguyên những cái cũ. Như thế trong con người phải có một cái gì khác vật chất, phải có một cái gì biệt lập với vật chât, cái đó chính là linh hồn vậy.” [Đi Về Đâu của Văn Quy, trang 9]



Con người có nhu cầu: khoa học, kỷ thuật, âm nhạc, hội họa, thơ, văn, sách, báo…và quan trọng hơn hết là con người có nhu cầu tôn giáo. Tôn giáo là nhu cầu của linh hồn; cũng như thức ăn, nước uống là nhu cầu của thân xác. Với khả năng của linh hồn, con người biêt suy tư: Tôi từ đâu đến? Tôi sống để làm gì? Sau khi chêt, tôi sẽ đi về đâu? Có Thượng Đế không? Làm sao có được hạnh phúc vĩnh cửu?... Những câu hỏi quan trọng này, không thể tìm được câu trả lời ở đâu, mà chỉ có thể tìm được nơi tôn giáo. Nhu cầu tôn giáo, minh chứng con người cao trọng hơn mọi sinh vật như chó, mèo, khỉ,..dù chúng có sống gần nhà thờ, chùa, giáo sĩ, thì mãi mãi chúng vẫn không có nhu cầu tôn giáo. Chúng ta hãnh diện là người có tôn giáo, là sinh vật thượng đẳng hơn xa súc vật và cỏ cây.



Thân xác chúng ta chỉ là lớp áo ngoài, một ngày kia sẽ phải bỏ lại và sẽ hư nát; linh hồn là con người thật của chúng ta. Có những thân xác xấu xí nhưng tâm hồn cao thượng, đáng kính trọng; ngược lại, có thân xác đẹp nhưng tâm hồn ti tiện, hèn hạ. Chúng ta có câu nói diễn tả phần nào ý đó: “tấm lòng vàng trong manh áo rách”. Những ai chỉ quan tâm đến nhu cầu của thân xác, mà lơ là nhu cầu của linh hồn, không phải là đã lạc lối hay sao?



“Năm 1793, nước Pháp chối bỏ tôn giáo, chối bỏ Thiên Chúa, tôn lý trí lên làm thần. Kêt qủa máy chém mọc lên khăp nơi. Lý hình mệt đừ vì giết chóc. Tại Nantes, người ta sáng chế ra một chiêc tàu giêt người hở đáy. Chiều chiều người ta chất đầy các tù nhân, để đem đổ xuống sông Loire. Mỗi chuyến như thế là 1,300 người. Người ta đếm được 23 chuyến, trong số có 600 trẻ nhỏ. Trên bờ có những tên côn đồ, ai bơi vào được thì bị chặt tay chân, vứt xuống sông. Trong tháng 12 của năm 1793 và đầu năm 1794, quanh thành Nantes có chừng 15,000 người bị hành quyêt.” [Đi Về Đâu của Văn Quy, trang 30]



Những kẻ độc tài, giêt người không gớm tay như Tần Thủy Hoàng, Hitler, Lenin, Stalin, Mao, Pon Pot, Hồ chí Minh và đảng Cộng sản đều là những kẻ không có niềm tin tôn giáo. Họ chủ trương loại bỏ tôn giáo ra khỏi đời sống con người nên luân lý suy đồi, đạo đức xuống cấp thảm hại. Thật bất hạnh cho quốc gia và nhân loại có những con người như thế.



Ngược lại, những người có trái tim nhân ái như St. Francis, Linh mục Damien, Giám mục Cassey, nữ tu Teresa Calcutta,.. và những nữ tu, linh mục, giáo dân, săn sóc cho người cùi, bịnh liệt kháng, tàn tật, ngèo khổ, gái chửa hoang, trẻ mồ côi, bụi đời…đều là những con người có niềm tin tôn giáo. Tôn giáo làm cho cuộc đời bớt đau khổ, có ý nghĩa và đáng sống. Tôn giáo là vấn đề hàng đầu đối với những ai quan tâm đến hạnh phúc của tha nhân và của chính mình, đời này và đời sau.



2. TÔN GIÁO NÀO CŨNG TÔT?

Có người cho rằng tôn giáo nào cũng tôt nên theo tôn giáo nào cũng được. Nếu hiểu khái quát thì câu nói này đúng, vì mọi tôn giáo đều dạy con người làm lành, chẳng tôn giáo nào dạy ăn trộm, ăn cướp. Nhưng nếu hiểu đúng đắn thì không phải vậy. Bởi có nhiều tôn giáo với giáo lý, niềm tin trái ngược nhau. Có trái ngược thì không thể tât cả đều đúng. Có tôn giáo tôn thờ Thượng Đế như Thiên Chúa giáo. Có tôn giáo chối bỏ Thượng Đế và chính mình như Phật giáo. Có tôn giáo vừa theo Chúa, vừa theo Phật; nghiã là vừa hữu thần, vừa vô thần như Cao Đài giáo. Có tôn giáo thờ bò, khỉ, rắn,..những sinh vật thấp kém so với loài người như Ấn giáo. Với những sự khác biệt như thế mà nói rằng theo tôn giáo nào cũng tốt, cũng được, có hợp lý không? Tôn giáo nào cũng dẫn đến cõi hạnh phúc vĩnh cửu có đáng tin không?



3. THIÊN CHÚA GIÁO

Thiên Chúa còn được gọi là Thượng Đế, Ông Trời, Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Chí Cao, Đấng dựng nên mọi loài, mọi vật trên trời, dưới đât, hữu hình và vô hình, là Đấng duy nhât đáng tôn thờ; nếu chúng ta thờ lung tung, hoặc chối bỏ Ngài; hoặc vừa theo Ngài, lại vừa theo kẻ chối bỏ Ngài, như thế có hợp tình, hợp lý không? Những ai thật sự quan tâm đến hạnh phúc đời đời của chính mình, thì phải tìm hiểu đâu là tôn giáo chân thật?



Thiên Chúa Giáo chỉ tôn thờ Thiên Chúa, nhưng làm sao chúng ta biêt có Thiên Chúa? Có rât nhiều cách để biêt có Thiên Chúa. Ở đây, tôi chỉ đơn giản như sau: Tôi từ đâu đến? Tôi sống để làm gì? Sau khi chêt, tôi sẽ đi về đâu? Chính mấy câu hỏi này minh chứng con người có linh hồn. Linh hồn là điều có thực, nhưng vô hình, măt người không nhìn thấy. Cái có thực mà không nhìn thấy đó, gợi cho tôi câu hỏi: ai đã dựng nên linh hồn của chính tôi? Nêú không phải là Đấng chúng ta cũng không thấy, nhưng thật sự hiện hữu, đã dựng nên linh hồn của chúng ta sao?



4. LỜI CHIA SẺ CỦA NHỮNG TÂM HỒN KHAO KHAT CHÂN LÝ:



4.1. “Khi biêt mình đã già, chẳng còn sống được bao lâu, rồi tôi cũng như mọi người là phải nằm xuống đáy mồ, đất lấp lại, thế là xong hay sao? Nếu đó là tât cả cuộc đời của mỗi con người thì thật là vô lý và vô nghiã quá. Tôi băt đầu tìm hiểu Phật giáo. Tôi đọc sach Phật giáo, tiêp xúc với vài vị sư. Tôi thăc mắc: Con người từ đâu mà đến? Có Thượng Đế không? Tại sao có vũ trụ này? Sau khi chết, con người đi đâu?.. Những sách vở tôi đọc, và các vị sư không giải đáp những thắc mắc của tôi, mà cứ bảo những điều đó không cần biết, điều cần hiện tại là hãy làm lành, lánh dữ. Tôi thắc mắc: tại sao đi trên một con đường mà mình không biêt bắt đầu từ đâu, đi đến đâu, làm sao mà đến đich? Làm sao mà có được lòng phấn khởi? Lấy gì làm chỉ đạo?... Sau hơn 2 năm cố gắng học Phật pháp, tôi hiểu Phật giáo chủ trương cái gì cũng vô: vô Thượng Đế, vô mọi sự và vô cả con người của chính mình, “vô ngã”. Đến nước này, tôi không thể chịu đựng được, tôi là một con người có thật, đang khao khát đi tìm chân lý, mà bảo rằng không có tôi, thì ai đang thăc măc và đi tìm chân lý đây? Sau khi suy nghĩ cẩn thận, tôi quyêt định thêm một chữ vô vào Phật giáo là: một tôn giáo không đáng vô [vô ở đây có nghiã là vào, là gia nhập]



Tôi băt đầu tìm hiểu Thiên Chúa Giáo. Tôi đọc Kinh Thánh và tiếp xúc với vài linh mục. Qua Kinh Thánh, tôi nhận thấy Chúa Giêsu thật là Thiên Chúa Ngôi Hai, bởi nguồn gốc, lời nói, việc làm của Ngài tỏ rõ điều đó. Đoạn Kinh Thánh mà tôi suy nghĩ nhiều là đoạn Ngài nói: “Ai làm điều gì dù cho người bé nhỏ nhât của ta, là làm cho chính ta.” Câu nói này cho tôi nghĩ: Ngài là Người Cha của cả nhân loại. Một Người Cha luôn muốn con cái của mình yêu thương nhau. Tôi có con, khi con cái của tôi chửi mắng nhau, hoặc đánh nhau thì y như chúng chửi tôi, tát vào mặt tôi, hoặc như dao đâm vào trái tim tôi. Sau gần 2 năm theo học Thiên Chúa Giáo, tôi quyêt định cùng với cả gia đình gia nhập hàng ngũ con cái Chúa, lúc tuổi đời tôi đã 69. Dù muộn màng, nhưng giờ đây tôi đã biêt: tôi từ đâu đến, tôi sống để làm gì, và tôi biêt tôi sẽ đi về đâu. Tôi vui mừng và dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban ơn cao trọng này cho gia đình tôi.”



4.2. “Trước đây tôi là một người theo Phật giáo, vì có bạn theo Thiên Chúa giáo, tôi cũng tò mò tìm hiểu Thiên Chúa giáo, bởi tôi nghĩ: muốn hiểu rõ chính mình, thì phải có cái gì ở ngoài mình để so sánh. Sau khi học hỏi một số giáo lý căn bản của Thiên Chúa giáo, tôi lý luận: mình không biêt Đạo Phật đúng hay Đạo Chúa đúng; nhưng theo lẽ khôn ngoan buộc mình phải theo Đạo Chúa; bởi Đạo Chúa dạy người ta chỉ sống trên đời này có một lần. Nếu đúng thế, không theo Đạo Chúa, là không sống đúng nghĩa làm người, sẽ bị phạt đời đời trong hỏa ngục. Ngược lại. nếu Đạo Phật đúng, không theo Phật kiêp này, thì còn kiêp sau, kiêp sau nữa. Nhưng nếu Đạo Chúa đúng mà không theo...ôi thôi, mất mát đời đời, không lấy gì chuộc lại được. Nên theo Đạo Chúa; lợi, thì lợi vô cùng, lợi đời đời; còn nếu có thiệt, giả sử Đạo Chúa sai, Đạo Phật đúng, mà mình theo Đạo Chúa, thì chỉ chậm vào niết bàn. Mà những ai ham vào niết bàn là chưa diệt dục xong, và như thế cũng chẳng hy vọng vào niết bàn. Tôi chọn theo Chúa để được an tâm đời này và đời sau”.



4.3. Nguyễn Huệ Nhật, khi còn là một chú bé, vì khao khát chân lý, đã tầm sư học đạo từ năm 1957. Năm 1959 chú tiểu Huệ Nhật vào chùa Hải Hội. Huế. Đến tháng 7, năm 1968, ông được thọ giới Tỳ Kheo, tức là Cụ Túc Giới, và Bồ Tác Giới, được đốt vài cái sẹo trên đỉnh đầu, là giới phẩm được coi như bậc ‘Thế Gian Sư’, tại Phật Học Viện Nha Trang. Người tu sĩ đến địa vị ‘Thế Gian Sư’, thì it có người can đảm bỏ địa vị của mình, vì quyền lợi qúa lớn về tinh thần cũng như vật chất do nhà chùa, và quần chúng Phật tử dành cho. Nhưng tâm hồn khao khát chân lý, không cho phép ông ngừng lại ở đó. Sau khi đọc Kinh Thánh, ông nhận rõ chân lý không ở nơi tôn giáo mà ông đã bỏ bao tâm huyết và lòng nhiệt thành đeo đuổi. Ông đã ghi lại cuộc hành trình tìm kiếm chân lý, qua nhiều tac phẩm, nhiều bài viêt, và hằng trăm bài thơ giá trị.

[ Xin đến trang web: http://nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/nghuenhat/default.htm ]



Dưới đây là 2 bài thơ của ông:



Chúa ơi,

Trở về trong Chúa Giêsu

Thấy ra con đã bị tù quá lâu

Ngày xưa giọt lệ hoen sầu

Bây giờ lệ ấm chan mầu phước ân

Ngày xưa mỏi bước phong trần

Giờ ôm Thiên Chúa hai chân nhảy mừng

Ngày xưa nước mắt rưng rưng

Bây giờ nước mắt vui mừng tạ ơn

Ngày xưa mấy bận tủi hờn

Bây giờ bỏ giận thôi hờn hát ca

Ngày xưa lạc nẻo quê nhà

Nay về cố quận đường xa vui mừng ...



Một bài thơ khác của ông.

Ngày xưa có cúng ở chùa
Bây giờ có Chúa ở cùng vui thay.
Ngày xưa cầu đạo cạo đầu
Bây giờ Ðạo tỏ nhiệm mầu trong Cha.
Ngày xưa mặc áo cà sa
Bây giờ miệng cứ hát ca Ơn Trời
Ngày xưa xác tả hồn tơi
Bây giờ Thiên Chúa ban Lời yêu thương.
Ngày xưa lặn lội miên trường
Bây giờ Sự Sống, Con Ðường, Giê-Xu
Ngày xưa sương gió mịt mù
Bây giờ thấy Ðấng Thiên Thu trong hồn
Ngày xưa chết hụt, chưa chôn
Bây giờ chết thật, linh hồn tái sinh.

4.4. Paul Williams, là giáo sư của đại học University of Bristol, và là chủ tịch Hội nghiên cứu Phật giáo của Vương quôc Anh “United Kingdom Association for Buddhist Studies”. Năm 1978, Paul Williams gia nhập Phật giáo và hăng say truyền bá Phật giáo; nhưng sau khi Paul Williams đọc sách của Thoma Aquino, một người Công giáo, ông đã nhận ra: đức tin vào Thiên Chúa không hề phản lại lý trí; hơn thế, Paul Williams còn quả quyết là hình ảnh con người theo Phật giáo rất lẻ loi và tiêu cực, trái lại hình ảnh con người theo Công giáo hoàn toàn tich cực, ông viêt: “Nếu Phật giáo là chân thực, thì cuối cùng đối với mỗi chúng ta, cuộc sống cực khổ hiện tại chỉ là hư không và hoàn toàn vô giá trị; nhưng nếu Công giáo là chân thực, thì bấy giờ cuộc sống của mỗi chúng ta có giá trị vô cùng và hoàn toàn viên mãn.” Lễ Phục Sinh năm 2000, Paul Williams gia nhập Công Giáo.



4.5. Mashaba, học gỉa Ấn độ sinh tại Bihar, du học bên Anh nhiều năm, tuy có tài về hành chánh, ông không nhận một công tác nào trong khối Liên hiệp Anh. Sẵn có khuynh hướng về thần bí học, ông sống độc thân để nghiên cứu các tôn giáo. Ông nói: "Sở dĩ mỗi tôn giáo công dụng khác nhau, vì mỗi giáo tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo khía cạnh đó. Bởi thế có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời, công bằng bác ái, nhưng không tôn giáo nào đầy đủ như Thiên Chúa giáo, vì xây dựng cho con người một cuộc sống có ý nghĩa cao thượng, bảo đảm cho một tương lai hạnh phúc, và có nhiều đặc điểm mà các tôn giáo khác không có, như:
- Vị giáo tổ bởi Trời giáng thế và đã được Sấm ký báo trứơc từ mấy ngàn năm trong lịch sử hẳn hòi, khác hẳn với những giáo tổ khác, chỉ là người trần tục.

- Có từ Trời xuống lập đạo, thì đạo đó mới có khả năng đưa con người về Trời.

- Đạo Trời thì như thuốc trường sinh, dùng thuốc này thì không cần thuốc nào nữa; vì các đạo khác chỉ xoa dịu, hay làm quên đau khổ trong thời hạn, còn ĐạoTrời chẳng những cứu khổ, còn ban cho con người sự sống đời đời, đó mới thật là ước vọng cao nhất của mỗi người.

- Đức Chúa Giêsu chiến thắng sự chêt, đã sống lại và về Trời, bảo đảm cho cuộc hành trình và niềm hy vọng vững chắc của người tín hữu.

- Vì mang sắc thái siêu phàm và chứa đựng những gía trị cao thượng vượt mức, nên Đạo Trời thường bị gen tị, hiểu lầm hay lấn áp, thế mà vẫn phát triển điều hòa, vẫn vững bền giữa mọi gian lao thử thách, khiến cho nhiều người trứơc kia thờ ơ lãnh đạm, hay thù gét, phải tìm hiểu và cảm phục, và từ đó trở nên tín hữu nhiệt thành.

Ông kết luận bằng một ví dụ: trứơc khi mặt trời mọc, người ta đã thấy ánh sáng của Đạo Trời chiếu vào nhân loại, trứơc khi chính Con Trời giáng thế làm sáng tỏ hẳn Đạo Trời. Nay ngày của cuộc đời đã đến lúc chính ngọ, thì không ai mà không được ánh sáng của Đạo Trời soi tới.”



Kính tặng những tâm hồn khao khát chân lý ■



Nguyễn HyVọng